Thứ Năm, 27 tháng 8, 2009

Phạm Sư Mạnh – Bài phật hay sùng phật

Ông là học trò xuất sắc của Chu Văn An, là một kẻ sỹ mẫu mực, cư Nho mộ Thích, đỗ Thái học sinh và làm quan dưới thời vua Trần Minh Tông. Trong số ít những trước tác ông để lại, có bài văn bia chùa Sùng Hưng ở núi Vân Lỗi, được ông viết năm 1372, và khá nhiều bài thơ vịnh cảnh những ngôi chùa nổi tiếng ở miền Bắc. Đặc biệt, bài thơ Đề Báo Thiên tháp của ông chính là “của tin còn lại” về một danh lam bậc nhất ở đất Thăng Long xưa, từng được tôn vinh là “An Nam tứ đại khí”.

Phạm Sư Mạnh tự Nghĩa Phu, hiệu Úy Trai, người làng Hiệp Thạch, huyện Hiệp Sơn (nay thuộc tỉnh Hải Dương), chưa rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết ông sống khoảng thế kỷ XIV, dưới thời vua Trần Minh Tông. Ông là một trong những học trò xuất sắc của Chu Văn An, đỗ Thái học sinh (Tiến sỹ) và ra làm quan vào năm 1323, dưới thời vua Trần Minh Tông. Năm 1345, ông được cử làm Chánh sứ sang thương thảo với nhà Nguyên; sau khi trở về, ông được giao giữ chức Chưởng bạ thư khiêm khu mật tham chính, và 12 năm sau ông được thăng đến chức Nhập nội hành khiển tri khu mật viện sự.

Phạm Sư Mạnh là một trí thức Nho giáo, sống có hoài bão, mang nặng ưu tư trước bao biến thiên của thời cuộc, và cũng như Lê Quát, ông có nhiều trăn trở trước sự suy thoái của đạo Thánh hiền ở cuối đời Trần. Người ta thường nói đến thái độ bài Phật của Lê Quát, và đôi khi còn gán ghép cho ông, nhưng đọc lại bài văn bia của Lê Quát viết về chùa Thiệu Phúc (Bắc Giang), và bài văn bia do ông viết ở chùa Sùng Hưng (núi Văn Lỗi), chúng ta chẳng tìm thấy có điểm nào được gọi là “bài Phật”, mà nói như G.S. Nguyễn Huệ Chi, bài văn bia của Lê Quát “thực chất chỉ là một lời tự thú về cái bất lực của một tín đồ nhà Nho trước cảnh hiu quạnh của môn phái mình” mà thôi.

Tuy là một nhà Nho nặng lòng trắc ẩn với đạo Thánh hiền, nhưng Phạm Sư Mạnh lại là người có những chiêm nghiệm rất thâm trầm về triết lý nhà Phật. Qua những tác phẩm thơ văn ông để lại, đặc biệt là bài thơ đề vịnh chùa Báo Thiên và bài văn bia chùa Sùng Hưng, chúng ta thấy rằng, Phạm Sư Mạnh là người có ý thức rất rõ trong việc giữ gìn các giá trị truyền thống và nguồn mạch tâm linh của dân tộc. Theo ông, ngôi chùa không chỉ là nơi quy hướng tâm linh của người dân mà còn là điểm hội tụ của hồn thiêng sông núi, là giềng mối muôn đời hộ trì cho sự an nguy của nước nhà. Nếu không có được một tâm thức như vậy thì trong bài bi minh chùa Sùng Hưng, núi Vân Lỗi, ông cũng không thể viết được rằng:

"Kề non Vân Lỗi, Am cỏ bên sông, Người đứng xây dựng, Giới tuệ viên thông, Kẻ sống người chết, Nghìn năm phúc chung, Chúng sinh cứu vớt, Từ bi rủ lòng, Bến mê dẫn đặt, Muôn loài qua sông, Mọi người hớn hở, Khắp chốn ngóng trông, Đạo huyền sâu lắng, Bờ bến khôn cùng…"

Trước tác của Phạm Sư Mạnh còn lại không nhiều, ngoài bài văn bia chùa Sùng Hưng nói trên, hiện chỉ còn 33 bài thơ được chép rải rác trong Việt âm thi tập, Trích tuyển chư gia luật thi, Trích diễm thi tập và Toàn Việt thi lục. Trong đó, có khá nhiều bài thơ vịnh cảnh những ngôi chùa nổi tiếng ở Thăng Long và những vùng lân cận, như Đề Cam Lộ tự (Đề vịnh chùa Cam Lộ), Đông Sơn tự hồ thượng lâu (Lầu trên hồ chùa đông Sơn), Du Phật Tích Sơn ngẫu đề (Thăm chùa núi Phật Tích ngẫu hứng đề thơ)…

Đặc biệt, bài thơ Đề Báo Thiên tháp mà ông để lại, đối với hậu thế hôm nay, đó là một lời hoài vọng ngậm ngùi, và cũng là một tư liệu lịch sử quý giá, là “của tin còn lại” về một danh lam bậc nhất của đất Thăng Long xưa, từng được tôn vinh An Nam tứ đại khí trong suốt hơn 800 năm, trước khi bị Giám mục Puginier cấu kết với gian thần Nguyễn Hữu độ cho triệt phá để xây dựng nhà thờ Lớn, Hà Nội vào năm 1883:


Trấn áp đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
Kim cổ nan ma lập địa chùy
Phong bãi chung linh thời ứng đáp
Tinh di đăng chúc dạ quang huy
Ngã lai dục thử đề danh bút
Quản lĩnh xuân giang tác nghiễn trì.


Dịch thơ:

Trấn áp đông tây giữ đế đô
Hiên ngang ngọn tháp đứng trơ trơ
Non sông vững chãi tay trời chống
Kim cổ khôn mòn đỉnh tháp nhô
Thỉnh thoảng gió lay chuông ứng đáp
Đêm đêm sao xế đuốc khôn mờ
Tới đây những muốn dầm ngòi bút
Chiếm cả dòng sông mài mực thơ...


(Đào Thái Tôn dịch)

Bài thơ này có thể được Phạm Sư Mạnh trước tác trước năm 1368, trong thời gian ông còn làm quan ở kinh thành Thăng Long. Sau năm 1368, ông được cử đi xét duyệt quân binh ở các lộ rồi lui về ở ẩn, và không biết ông đã mất vào năm nào. Hậu thế hôm nay, mỗi khi hoài niệm về chùa Báo Thiên, gợi nhắc lại An Nam tứ đại khí, vẫn mãi biết ơn ông về bài thơ này. Khắp các tỉnh thành trong cả nước, hiện đều có những con đường được mang tên ông.

Nguồn tin:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét