Thứ Năm, 28 tháng 10, 2010

Các nghĩa sỹ họ Phạm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn

Bảng ghi chép tráng niên - hiền tài - hào kiệt các nơi đến Lam Sơn hội nghĩa kể từ ngày nhen lửa đến lúc vượng.
- Năm Ất Mùi 1415 (18 người):
Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận, Lê Ngân, Lê Liễu, Trịnh Khả, Đinh Lễ, Đinh Bồ, Lê Sát (tức Lý Sát), Nguyễn Lý, Trương Lôi, Trương Chiến, Lê văn Linh, Vũ Uy, Lưu Nhân Chú, Bùi Quốc Hưng, Trần Lựu, Lê Bồi
- Năm Bính Thân 1416 (55 người +8):
Nguyễn Như Lãm, Ngô Kinh, Ngô Từ, Lê Hựu, Lê Khuyên, Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Lê Thạch, Lê Khôi, Lê Khang , Lê Khiêm, Nguyễn Xí (gia thân Lê Lợi), Lê Trăn, Lê Vận, Lê Linh, Lê Chưởng, Phạm Vấn, Phạm Lung, Trần Lãm, Lê Tại, Lê Thụ, Lê Lan, Lê Lân, Lê Xuân Thọ, Lê Lĩnh, Lê Văn Biếm, Phạm Lật, Lê Thiệt, Lê Đạt, Bùi Bị, Phạm An, Phạm Thái, Lê Nhi , Lê Bá Lao, Lê Cố, Lê Sao, Phạm Oánh , Phạm Nột, Nguyễn An , Hà Trung, Trịnh Đồ ( 2 voi và 8 gia nô), Hà Mộng, Hà Đệ, Lê văn Giáo, Trịnh Lỗi, Trần Trại , Đỗ Bí, Lê Khương, Lê Dạp, Lê Bí, Lê Hối, Lê Võ Bị, Lê Lô, Lê Lộ , Lê Lâm
- Năm Đinh Dậu 1417 (44 người):
Nguyễn Danh Cá, Lê Tôn Kiều, Lê Hào, Thìn Phạm Văn Liêu, Lê Trung, Lê Nhân Thọ, Lê Ninh, Lê Hà Viên, Lê Bôn, Lê Mạnh, Lưu Trung , Phạm Cuống, Lê Nỗ, Lê văn Chuẩn, Phạm Quỳ, Phạm Khanh, Trịnh Khắc Phục, Lê Cẩn, Lê Cẩm, Lê Văn Lễ, Trịnh Cương, Lê Văn Lang, Lê Lệ, Lê Như Hổ, Lê Xa Lôi, Lê Luân, Lê Hiên, Lê Định, Lê Độ, Lê Lãng, Lê Trinh, Lưu Đàn, Lưu Thuận, Trần Xứng , Trần Đáng, Lê Kiêu, Lê Cảnh Thọ, Trịnh Võ, Lê Khả Lãng, Trần Hốt, Lưu Hoãn, Quách Giai, Quách Hạ, Hoàng Quế Sơn

- Tổng cộng 123 vị ( Theo di cảo của Đinh Liệt)

Danh sách 13 nghĩa sỹ họ Phạm tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ ngày đầu:
+ Năm Bính Thân 1416 (8 người):
- Tháng 5 ngày 20 giờ Ngọ Phạm Văn Xảo
- Tháng 8 ngày 15 giờ Thân Phạm Vấn, Phạm Lung
- Tháng 9 ngày 26 giờ Ngọ Phạm Lật
- Tháng 10 ngày 2 giờ Mùi Phạm An, Phạm Thái
- Tháng 10 ngày 24 giờ Ngọ Phạm Oánh, Phạm Nột
+ Năm Đinh Dậu 1417 (5 người):
- Tháng giêng ngày 26 giờ Thìn Phạm Văn Liêu
- Tháng 3 ngày 20 giờ Mùi Phạm Cuống
- Tháng 4 ngày 27 giờ Tỵ Phạm Quỳ, Phạm Khanh

Theo “Đinh tộc ngọc phả” của Đinh Liệt; bản dịch của Đinh Xuân Vinh
Xem thêm Danh sách người họ Phạm tham gia chống quân Minh

Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010

Ý KIẾN CỦA KTS TRẦN THANH VÂN VỀ PHẠM TU-LÝ PHỤC MAN

Ngày 28/3/2010

Người ta tôn vinh công đức của những nhân vật lịch sử để làm gì? Để giáo dục hậu thế noi gương tiền nhân và sống một cuộc sống có ý nghĩa. Chính bởi lẽ đó. Nếu tìm thấy những chứng cứ xác thực của lịch sử thì quá tốt. Nhưng trong thực tế có rất nhiều chỗ hư cấu, các nhà nghiên cứu biết rõ là sai với lịch sử, nhưng vì mấy trăm năm qua lòng dân muốn thế nên người ta vẫn tôn trọng như thế.
Ví dụ: Cạnh nhà tôi có ngôi Đình làng Nhật Tân, Đình thờ một vị Thánh có tên là Trần Linh Lang tức là Đức Thánh Cả và 6 người em nữa. Nghe hai tiếng Linh Lang là người ta biết không phải người thật rồi mà là một hư cấu. Chú thích ghi trong Đình Phả thì người ta lại nói vị này là con đầu của Chánh cung Hoàng Hậu của Vua Trần Thánh Tông là người con gái làng này, khi giặc Nguyên Mông đến thì người này dẫn đầu đoàn quân đi đánh giặc, sau khi giặc thua rồi thì ngài không nhận chức tước gì cả mà bay lên Trời, bởi thế dân làng ghi nhớ ơn ngài nên thờ phụng ngài suốt 700 năm qua. Vậy thì theo chính sử được ghi chép thì Vua Trần Nhân Tông là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và Chánh cung Hoàng Hậu cũng là Hoàng tộc, khi giặc Nguyên Mông đến lần 2 và lần 3 thì nhà vua tôn vinh bố vợ là Trần Hưng Đạo lên làm Tổng chỉ huy quân đội Đại Việt và tất nhiên là đánh thắng giặc. Việc này cả nước biết, thế giới cũng biết. Thế nhưng chỉ cách đây hai ngày thôi có lễ hội mừng chiến thắng quân Nguyên Mông, người ta tổ chức tập dượt cả một tuần, người ta mời rất nhiều đại biểu đến dự, người ta mở tiệc khao quân những 400 mâm, nhưng người ta vẫn đọc những điều sai sự thật về người con cả của vua Trần Thánh Tông, nhưng không ai đề nghị sửa cả. Tôi cho rằng nhân dân ở đây khi xưa muốn ca ngợi một người lính nào đó là dân làng nhưng họ lại gán cho là con trưởng của vua mà không nhận chức tước thì mới càng ly kỳ hơn.
Chuyện Cụ Phạm Tu và Lý Phục Man còn có nhiều nét tương đồng hơn. Ta cứ tạm coi nhân vật lịch sử có thật Phạm Tu có vai trò huyền bí mà nhân dân do yêu quý nên gọi thành Lý Phục Man thì có sao đâu?

Một số câu hỏi và đáp án về 1000 năm Thăng Long


Câu 116: Làng Thanh Liệt huyện Thanh Trì là quê hương của một người anh hùng thế kỷ thứ VI. Ông là ai?


Trả lời: Người anh hùng đó là Phạm Tu, quê ở thôn Văn, xã Quang Liệt (nay là Thanh Liệt), huyện Thanh Trì.
Phạm Tu là một người có sức khỏe phi thường, giỏi võ, giỏi vật (nhân dân thường gọi là Đô Tu). Ông sớm có lòng yêu nước, căm ghét bọn đô hộ. Năm 542, cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ, Phạm Tu là một số những người đầu tiên tham gia, đồng thời là một tướng tài, có những đóng góp xuất sắc vào cuộc khởi nghĩa. Ông đã kề vai sát cánh cùng các tướng tài khác như Tinh Thiều và Triệu Túc để giúp Lý Bí xây dựng chính quyền tự chủ non trẻ, lập nhà nước Vạn Xuân. Năm 543, ông cầm quân đánh dẹp quân xâm lấn bảo vệ bờ cõi phía nam. Năm 545, nhà Lương kéo đại quân sang xâm lược nhằm tái áp đặt ách đo hộ trên đất nước ta. Trong trận chiến đấu ác liệt diễn ra ở miền cửa sông Tô Lịch vào ngày 20 tháng 7 năm Ất Sửu, lão tướng Phạm Tu đã anh dũng hi sinh. Tưởng nhớ công ơn của người anh dũng, dân đã lập đền thờ. Đền ở thôn Trung, xã Quang Liệt. Hàng năm vào ngày 20 tháng 7, là ngày ông hi sinh, dân làng Quang Liệt (nay là Thanh Liệt) tổ chức cúng tế rất trang trọng.

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2010

Thái uý Phạm Kính Ân

Người làng Đặng xá, huyện Hưng Hà, khởi nguồn từ danh thần Phạm Cự Lượng, người có công đầu tôn Lê Đại Hành lên ngôi hoàng đế, tướng chủ lực giúp nhà Tiền Lê đánh tan giặc Tống, là quan đầu triều đời Tiền Lê. Ông được Lê Đại Hành lấy đất Đặng Xá ban cho. Vì có công kiến thiết quê hương giầu đẹp, được dân tôn làm Thành hoàng làng.


Người làng Đặng xá, huyện Hưng Hà, khởi nguồn từ danh thần Phạm Cự Lượng, người có công đầu tôn Lê Đại Hành lên ngôi hoàng đế, tướng chủ lực giúp nhà Tiền Lê đánh tan giặc Tống, là quan đầu triều đời Tiền Lê. Ông được Lê Đại Hành lấy đất Đặng Xá ban cho. Vì có công kiến thiết quê hương giầu đẹp, được dân tôn làm Thành hoàng làng.
Trải hơn 10 thế hệ, họ Phạm dốc lòng vì vua, vì nước, đến đời Phạm Kính Ân vẫn giữ chức quan nội hầu, sau được phong chức Thái Uý triều Lý. Trần Thái Tông lên ngôi vẫn lưu ông lại, giao chức nội hầu, xếp vào hàng quan lại đáng tin dùng.

Trải 9 năm làm việc nghiêm cẩn, người tôn thất tin yêu, các trọng thần kính nể, tới năm 1234 ông được tấn phong chức Thái phó, tham dự triều chinh, và chỉ 2 năm sau ông được thăng chức Thái uý.

Vua Thái Tông rất quý trọng vì lão thần họ Phạm, ban cho ông “áo mũ đại vương”, đặt ông ngang hàng với các đại vương đương triều như Thái sư Trần Thủ Độ, Thái uý Phùng Tá Chu.

Giữa năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (1240), người nước Tống tràn vào cướp phá biên giới. Quan quân biên ải không giữ nổi phải báo cấp về kinh. Trần Thái Tông sai ông nhận ấn đốc tướng đi chinh phạt, chỉ qua một trận mà biên ải thu về.

Tháng 4 năm 1251 ông tạ thế, vua sai bộ Lễ lo chủ tế, ban cho thuỵ hiệu. Ông là danh thần có công mở nghiệp và dựng nghiệp nhà Trần.


(Nguồn: Đất và Người Thái Bình)

Chủ Nhật, 10 tháng 10, 2010

Đón nhận bằng di tích LSVH Đền thờ Phạm Đình Tô và Nhà thờ Hồ Đạo An (Hà Tĩnh)

Sáng ngày 13-5, xã Sơn Long (Hương Sơn) tổ chức lễ đón nhận bằng di tích lịch sử văn hoá Đền thờ Phạm Đình Tô và Nhà thờ Hồ Đạo An. Lễ đón nhận được tổ chức một cách long trọng, đảm bảo các nghi lễ văn hoá truyền thống.


Ông Phạm Đình Tô là nhân vật lịch sử thế kỷ 16, giữ chức Đô chỉ huy sứ; ông Hồ Đạo An là nhân vật lịch sử thế kỷ 17, giữ chức Quản lãnh xứ Sơn Nam - Đây là hai vị khai tổ của dòng họ Phạm và dòng họ Hồ (xã Sơn Long ngày nay), do có nhiều công lao đóng góp trong việc bảo vệ triều chính, vỗ an dân lành, phát triển dân sinh nên vua Lê phong cho Phạm Đình Tô là Thọ Lộc Hầu và Hồ Đạo An là Đường Dương Hầu. Về sau, hai ông được phong là Thượng đẳng thần và được thờ tự, tế lễ theo nghi lễ của quốc gia.



Đền thờ Phạm Đình Tô và Nhà thờ Hồ Đạo An được UBND tỉnh cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá tại quyết định số 3643/QĐ-UBND ngày 16-11-2009 và quyết định số 3611/QĐ-UBND ngày 16-11-2009 của UBND tỉnh. /.



Bách Khoa
Nguồn: http://vanhoahatinh.gov.vn/

Nhà thờ họ Phạm xã Hưng Nhân (LS Phạm Hồng Thái)

Nhà thờ họ Phạm nằm ở làng Xuân Nha, tổng Văn Viên, phủ Hưng Nguyên ( nay là làng Xuân Nha, xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên). Từ thành phố Vinh lên huyện lỵ Hưng Nguyên, rẽ đường 12-9, đến kênh Lê Xuân Đào xuống xã Hưng Nhân là đến di tích.

Xuân Nha là một vùng quê nghèo nằm phía ngoài đê tả ngạn, sát cạnh sông Lam, được khai phá vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (174) do công của Già Xuân, Già Hiếu, Già Thập, Già Rằng. Vị trí địa lý đó đã giúp cho con người ở đây được hưởng nhiều sự ưu đãi của thiên nhiên, song cũng phải hứng chịu nhiều thiên tai lũ lụt. Chính vì vậy đã rèn luyện cho con người Xuân Nha có một sức sống dẻo dai, bền bỉ, đối chọi với thiên nhiên. Trải qua chiều dài lịch sử gần 250 năm làng Xuân Nha là một vùng quê có truyền thống yêu nước và khoa bảng. Trong đó dòng họ Phạm có truyền thống yêu nước và hiếu học hơn cả.

Thuỷ tổ của dòng họ Phạm là Già Thập, một trong bốn người có công khai phá tạo dựng nên làng Xuân Nha. Để tưởng nhới tới công ơn và có chỗ hương khói thờ phụng Già Thập, con cháu dòng họ Phạm đã chọn mảnh đất đẹp dựng nhà thờ. Nhà thờ họ Phạm được xây dựng từ cuối thời Cảnh Hưng năm 1785 trong một khu vực dân cư đông đúc. Lúc đầu để thờ cụ tổ dòng họ, về sau là nơi thờ tự của dòng họ, tiêu biểu là Phạm Hồng Thái. Nhà thờ đã chứng kiến biết bao thế hệ con cháu họ Phạm đỗ đạt và có tinh thần yêu nước thương dân. Ông nội Phạm Hồng Thái là cụ Phạm Trung Tuyến đậu cử nhân, được cử làm đốc học phủ Hưng Nguyên. Cụ được vua Tự Đức ban tặng thẻ bài ngà với 8 chữ vàng: “Quốc sủng, gia phong, khai hoa, kế nghiệp” ( có nghĩa là người nối nghiệp nước nhà, mở nền khoa bảng cho dòng họ, gia đình, có tinh thần yêu nước và được vua tin yêu). Ông Phạm Thành Mỹ (bố Phạm Hồng Thái) được phong hàm Bát phẩm thời Hàm Nghi, tuy làm huấn đạo nhưng trước đó ông rất thức thời trở thành thân sỹ tích cực của phong trào Văn thân. Ông Phạm Quý Công đậu cử nhân đời Thành Thái và được phong chức tiền thập lý hậu.

Với vị trí ngoài đê, gần bờ sông Lam, khi cần có thể vượt sông sang đất Hà Tĩnh, rồi từ đó vào Nam hoặc sang Lào, nhà thờ họ Phạm là nơi gặp gỡ của các anh hùng hào kiệt tìm đường cứu nước cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và là điểm dừng chân của chí sỹ yêu nước qua các thời cuộc.

Khi thực dân Pháp đặt chân lên xâm lược nước ta (1858) cả Nghệ Tĩnh dấy lên phong trào Văn thân chống Pháp. Nhà thờ họ Phạm trở thành nơi để cụ Phạm Trung Tuyển cùng các chí sỹ yêu nước như Lê Ninh, Phan Đình Phùng, Cao Thắng…. đàm đạo thơ văn và bàn định thời cuộc, kêu gọi mọi người theo cờ Hàm Nghi chống Pháp.

Những việc làm của ông cha qua lời kể lại cùng với những điều tai nghe mắt thấy về tinh thần yêu nước của thế hệ ông cha trong cảnh nước mất nhà tan, đời sống cơ cực của người dân trong cảnh nước mất nhà tan đã khắc sâu trong tâm trí cậu bé Phạm Thành Tích ( tên gọi lúc nhỏ của Phạm Hồng Thái).

Lớn lên trong thực tế xã hội đó, tuổi thơ cậu bé Phạm Thành Tích đã được người cha thân yêu là cụ Phạm Thành Mỹ kèm cặp, rèn dạy. Cụ đã lấy nhà thờ họ Phạm - nơi linh thiêng của cả dòng họ và nhân dân làng Xuân Nha ngưỡng vọng làm nơi rèn dạy các con. Cụ thường nói với các con: “Lớn lên các con phải báo đền nợ nước, phải coi nợ nước nặng như núi Thái Sơn và coi thân mình nhẹ tựa sợi hồng mao”.

Nhà thờ họ Phạm là nơi gắn bó tuổi thơ của Phạm Hồng Thái và những hoạt động yêu nước của anh ở quê nhà. Đó là tất cả những bước chuẩn bị cho cho hành trình xuất dương và hành động dũng cảm ném bom giết tên toàn quyền Merlin ở Sa Diện, Quảng Châu, Trung Quốc. Thời gian làm ở nhà máy Vinh - Bến Thuỷ, Phạm Hồng Thái vẫn chọn nhà thờ họ Phạm làm nơi tiếp bạn bè. Tại đây anh đã cùng với bạn bè như Hồng Phong, Lê Thiết Hùng…bàn việc cứu nước và tuyên truyền sách báo đưa tin đấu tranh, kêu gọi đấu tranh….Họ cùng nhau đọc và giảng giải cho nhau nghe những áng thơ văn đầy nhiệt huyết, nhất là những bài viết của Phan Bội Châu gửi từ hải ngoại về.

Những tháng ngày làm việc trong các nhà máy được chứng kiến cảnh bóc lột tàn bạo của bọn đế quốc phong kiến đối với người lao động đã thôi thúc Phạm Hồng Thái ra đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc.

Sáng sớm ngày 17-2-1924 Phạm Hồng Thái cùng Lê Thiết Hùng, Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh….hăm hở ra đi với hoài bão sẽ cứu nước thắng lợi. Trước lúc ra đi, anh đã lên nhà thờ kính cẩn thắp nén hương thơm cầu xin các đấng tiên liệt phù hộ cho anh em sớm đạt được chí nguyện đền nợ nước, trả thù nhà. Tiếng bom mưu sát tên toàn quyền Merlin của Phạm Hồng Thái trên đất Quảng Châu, Trung Quốc đã minh chứng cho tinh thần, ý chí đó của anh.

Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nhà thờ họ Phạm còn là nơi các đảng viên chi bộ Phú Vinh, chi bộ Nghĩa Liệt và chi bộ Cự Thôn hội họp, in ấn và cất dấu tài liệu của Đảng. Nhân dân Xuân Nha thường tập trung tại đây trước khi đi biểu tình. Ngày 31-8-1930 cùng với nông dân cả huyện, nhân dân Xuân Nha tập trung tại nhà thờ họ Phạm tổ chức mit tinh nhỏ hưởng ứng các cuộc đấu tranh ở Bến Thuỷ và Hạnh Lâm. Ngày 12-9-1930, từ nhà thờ họ Phạm nhân dân tập trung kéo kên phủ lị đấu tranh cùng với nhân dân trong huyện và công nhân thành phố Vinh. Đây là cuộc đấu tranh có qui mô rộng lớn nhất của nhân dân Hưng Nguyên từ trước tới nay dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung kỳ mà trực tiếp là Tỉnh uỷ Nghệ An và huyện uỷ Hưng Nguyên.

Trong thời gian cơ quan ấn loát của Huyện uỷ rút lui vào hoạt động bí mật từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1931, nhà thờ họ Phạm được chọn là trụ sở vì đây là nơi kín đáo, có vị thế thuận tiện cho việc rút lui an toàn. Các đồng chí Tôn Gia Chung (tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Nghệ An), Lâm Nhật Phấn, Tôn Thị Quế, Trần Quỳ…đã từng về dự họp và tuyên truyền cách mạng trong nhân dân. Tại nhà thờ, cụ Phạm Thành Mỹ đã cùng với đồng chí Phạm Ngơi dạy chữ quốc ngữ xoá nạn mù chữ, mở mang trí tuệ hiểu biết cho bà con.

Cách mạng tháng Tám bùng nổ, nhà thờ họ Phạm là nơi nhân dân Xuân Nha dưới sự chỉ đạo của các đồng chí trong Nông hội, tự vệ…tập trung đi cướp chính quyền.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà thờ họ Phạm là nơi dòng họ tiễn đưa con em lên đường bảo vệ Tổ quốc trước nghi lễ gia tiên. Nhà thờ còn được chọn làm nơi sinh hoạt tư tưởng, văn hoá, văn nghệ khi các đơn vị bộ đội về đây đóng quân tại đây.

Hàng năm cứ đến ngày hy sinh của Phạm Hồng Thái (19-6) các cấp chính quyền và các tổ chức quần chúng địa phương thường đến thắp hương tưởng nhớ đến anh. Ngày Rằm tháng 7 hàng năm con cháu xa gần lại về tế họ. Đây là dịp để dòng họ nhắc nhở con cháu ghi nhớ ân đức tổ tiên, phát huy truyền thống tốt đẹp. Nối bước ông cha, con cháu họ Phạm đã có nhiều người đỗ đạt, thành danh với nhiều nhà khoa học, nhiều nhà chính trị nổi tiếng như Phạm Thành Thư ( cháu gọi Phạm Hồng Thái là chú ruột) đã đi theo con đường cách mạng của Hồng Thái và hy sinh ở Hồng Kông trước năm 1945; luật sư Phạm Thành Vinh hoạt động ở Hội luật gia quốc tế (cháu gọi Phạm Hồng Thái là chú ruột); Trung tướng quân đội nhân dân Việt Nam Phạm Hồng Sơn ( cháu gọi Phạm Hồng Thái là chú ruột); bà Phạm Thị Kim – nguyên viện phó Viện Hán Nôm Việt Nam; Phạm Minh Nguyệt (con trai liệt sỹ Phạm Hồng Thái ) – trung tá quân đội nhân dân Việt Nam…

Nhà thờ họ Phạm là nơi lưu giữ một sưu tập di sản văn hoá duy nhất liên quan đến cuộc đời sự nghiệp của liệt sỹ Phạm Hồng Thái. Những tư liệu hiện vật còn lại trong nhà thờ như thẻ bài, long ngai, gia phả, hoành phi, câu đối, thơ ca….giúp chúng ta hiểu thêm một dòng họ có truyền thống khoa bảng và cách mạng. Đó chính là nền tảng, là cái nôi nuôi dưỡng, hun đúc một ý chí, một tinh thần cách mạng kiên trung, hy sinh thân mình cho dân tộc của Phạm Hồng Thái.

Toàn bộ cấu trúc nhà thờ mang dáng dấp Phương Đông cổ xưa với nhiều nét chạm trổ tinh vi, có hình rồng chầu mặt trăng. Cả trang trí nội thất lẫn cấu trúc nhà thờ đều thể hiện bàn tay khéo léo tài hoa và khối óc thông minh của những người con xứ Nghệ.

Nhà thờ cấu trúc 2 gian lợp ngói vảy kiểu nhà tứ trụ, mái đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, dưới chân đắp nổi hình rồng ngậm lá sen. Nhà thờ cao 3,5m; rộng 5,5m, dài 6,5m, tổng diện tích là 76m¬2 ngoảnh mặt về hướng Đông Nam, trước sân bên phải có một am nhỏ thờ thổ công là ông tổ Bá (là người trong dòng họ rất linh thiêng). Nằm trong khu vực dân cư đông đúc, hướng mặt ra sông dáng vẻ oai nghi như dám đương đầu, thách thức với những khắc nghiệt của thiên nhiên cũng như hình ảnh bất khuất hiên ngang của liệt sỹ Phạm Hồng Thái đúng như ý nghĩa câu đối hai bên điện thờ:
“ Miếu thuộc Hồng Lam chung vượng khí
Nhân ư Nùng Nhị ngưỡng dư linh”
Bàn thờ tổ tiên nằm chính giữa nhà hạ điện. Phía trên điện thờ và hai bên tả hữu đều có các hoành phi câu đối bằng chữ Hán. Trên cùng có 3 chữ “Tổ Thị Hoàng” bằng chữ Hán mang ý nghĩa đây là dòng họ lớn, vĩ đại. Trên bàn thờ còn có thẻ bài của vua Tự Đức tặng cho cụ Phạm Trung Tuyển. Bên trái điện thờ là bàn thờ chi Phạm Hồng Thái, trên có án thờ và ấn phẩm, sắc phong, bao sắc của cụ Phạm Trung Tuyển, Phạm Thành Mỹ. Bên phải điện thờ là nơi thờ tự những người con của dòng họ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến cứu nước. Nhà hạ điện là nơi các bậc sỹ phu yêu nước trong phong trào văn thân Cần Vương thường đàm đạo thơ văn, bàn việc cứu nước. Và cũng là nơi học chữ quốc ngữ của nhân dân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Nhà thượng điện được ngăn cách với hạ điện bằng một bức ngăn bằng gỗ ván. Chính giữa thượng điện là điện thờ các thần linh. Hai bên điện thờ là các câu đối. Bên trái điện thờ có bàn thờ được hoạ hình dòng suối chảy từ núi và đề 3 chữ “Thuỷ hữu nguyên” nghĩa là nước có nguồn. Bên phải là bàn thờ trên đó có họa hình cành mai và đề chữ “ Mộc hữu bản” có nghĩa cây có gốc nhắc nhở con cháu phải luôn nhớ về cội nguồn tổ tiên như nước chảy phải có nguồn, cây xanh phải nhớ về cội. Thượng điện là nơi tổ ấn loát làm việc trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh từ tháng 3 đến tháng 4/1931. Đó cũng là nơi cất giấu tài liệu cho Hồng Thái và các đồng chí hoạt động.

Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, nhà thờ họ Phạm còn chứa đựng trong nó nhiều giá trị khoa học - văn hoá - nghệ thuật. Với những đóng góp lớn lao của di tích và những giá trị chứa đựng trong nó, nhà thờ họ Phạm đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia, theo quyết định số 2754/QĐVH ngày 15 tháng 10 năm 1994

Nguồn: http://btxvnt.org.vn/cms/?m=29&act=view&id=275

Thứ Bảy, 9 tháng 10, 2010

Tìm được gia thế của Lý Thái Tổ sau 1000 năm?

Phải chăng cả bà nội và mẹ Lý Công Uẩn đều là người họ Phạm ở Dương Lôi. Ông nội của Lý Công Uẩn có phải là sứ quân vùng Siêu Loại. Việc lên ngôi của nhà Lý là ước nguyện được xây dựng hàng trăm năm của dân tộc Việt?

Mời quý vị nghiên cứu bài viết của nhà nghiên cứu Trần Viết Điền vừa công bố 9-2010 trên http://www.vietthuc.org/

Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. Cuộc hôn phối có ý đồ, với đạo diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà với ” vị thần nhân dựa cột chùa “, một người họ Lý đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp ” thần nhân “, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lý Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang trong thời kì phải mai danh ẩn tích. Sự kiện bà mẹ Lý Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi bé cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy và cuối cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé Lý Công Uẩn thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu. Còn giả thuyết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp-Siêu Loại, không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư, đứng vào hàng tam bảo, lại làm việc phạm giới luật. Cuộc ” cách mạng lam “, chuyển giao quyền lực từ họ Lê, đã mất lòng dân, sang họ Lý, phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí thức tam giáo, nòng cốt là trí thức Phật giáo, cùng nhau giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, là kế thừa ” tâm nguyện ” trăm năm kể từ thời thuộc Đường, thế kỷ IX, ấy là “củng cố và phát triển miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn hưng đạo pháp ” của thiền sư Định Không (730-808).
1. Lý Công Uẩn, người thỏa niềm khát vọng của dân tộc Việt vào cuối thế kỷ X
Nhà nước Văn Lang sụp đổ, dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương bắc. Dẫu vài lần dân tộc Việt quật khởi, tưởng chừng nối được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn hoá giáo dục, nên dân tộc Việt rất chậm phát triển vào thời Bắc thuộc. Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân. Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền Lê, với Lê Long Đỉnh, giết anh giành ngôi, làm việc lỗi đạo… Các triều vua Đinh Lê, bó hẹp trong vùng núi Ninh Bình, rất lợi thế về quân sự, có quân công trong lịch sử, nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát triển toàn diện ; thậm chí để lại những việc làm quá ư vô đạo! Thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn hoá Văn Lang, một trung tâm Phật Giáo Luy Lâu-Thuận Thành, phía đông sông Hồng, nam sông Đuống, đã phát triển bền vững…Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết đáp ứng lòng dân…Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. Lý Công Uẩn không phải là con thần cháu thánh của truyền thuyết, chẳng phải là thiên tử của vị ngọc hoàng mơ hồ nào đó của cổ tích …mà ngài là một vì vua đươc nhân dân ” hoài thai ” suốt một thời đau đáu cho tiền đồ dân tộc; được sự giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ của thế kỷ X.


Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn
nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3
Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn như Phật giáo; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ chưa thịnh hành lắm, ít nhiều ” đồng loã ” với ” Tống nho “, đạo của những kẻ xâm lược, bao giờ cũng chủ trương đưa An Nam vào quỹ đạo bình nam của Thiên triều phương bắc. Đại bộ phận dân chúng làm sao quên được cái ách đô hộ nghiệt ngã ấy và làm sao quên được đại quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, từng giày xéo nước Việt. Những làng xã thuộc lưu vực sông Hồng, đến thế kỉ X đã có rất nhiều chùa lớn, đã đào tạo nhiều thiền sư giỏi giáo lý nhà Phật mà cũng uyên thâm tứ thư ngũ kinh.Vậy đường hướng giáo dục lúc bấy giờ là chọn Phật giáo làm quốc giáo nhưng lồng ghép Nho Lão kiểu tam giáo đồng nguyên vậy. Lý Thái Tổ cùng vị cố vấn tuyệt vời Vạn Hạnh, đã có những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa đất nước Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền móng cho một thời LÝ -TRẦN độc lập tự chủ, được ngẫng cao đầu đối với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm.

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh ở núi Tiêu sơn

Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh Tống nho.Xây dựng mới là việc cần làm, đào tạo người mới cho công cuộc cải cách mới là khát khao của giới trí thức lãnh đạo lúc bấy giờ. Vùng Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư, chỉ thích hợp cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nhưng nó không thể là đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương nghiệp, không là nơi tụ hội những trí thức giỏi, nghĩa là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất nước . Vì thế cho nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La mà thôi.Thành Đại La đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong thuỷ, mà thành Đại La còn là trung tâm của một vùng văn hoá có bề dày. Dẫu thành Đại La một thời là An nam đô hộ phủ của những quan thứ sử nhưng nó còn là nơi hội tụ anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực, luôn âm thầm gìn giữ bản sắc dân tộc, lấy triết lý Phật giáo làm kim chỉ nam, lấy chùa chiền làm nơi tu học của mọi giới và tạo những ổ đề kháng chống lại những gì thuộc về ngoại lai, có nguy cơ làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt.Vì vậy khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư, để ra Đại La thành là một sự bùng vỡ ý thức ” cách mạng “, đã nung nấu từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ đã ra đời, hợp lòng người (ý trời), hợp địa lợi ( vật lực tài lực sung mãn của châu thổ sông Hồng ) và đạt lẽ nhân hoà ( cư dân vùng nông nghiệp sông Hồng đã có trình độ văn hoá cao, khá thuần hậu với các minh triết Việt).
Lý Công Uẩn đã xuất hiện đầy huyền thoại nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự thực về gốc gác của ngài cả ngàn năm sau vẫn là một dấu hỏi nhức nhối !

2. Một số vấn đề chưa giải quyết dứt điểm trong việc tìm kiếm tông tích của Lý Công Uẩn

Khi tìm tông tích của Lý Công Uẩn, giới nghiên cứu quan tâm các địa danh Đình Bảng, Dương Lôi, Hoa Lâm. Có thời các nhà nghiên cứu cho rằng Đình Bảng là quê nội và Dương Lôi là quê ngoại của Lý Công Uẩn, hai làng nội ngoại cách nhau bởi rừng Báng, có mộ thiên táng của bà Phạm Thị Ngà (thân mẫu của Lý Công Uẩn) và về sau trở thành vùng đất ” Sơn lăng cấm địa “với lăng mộ của các vua triều Lý. Có nhà nghiên cứu cho rằng ở Đình Bảng có Đền Đô thờ 8 vua Lý và như thế cha ruột của Lý Công Uẩn là quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tất nhiên giới nghiên cứu đã bác bỏ hướng nghiên cứu này từ vài năm nay. Gần đây lại phát hiện ở đình Dương Lôi thờ 8 vua Lý làm thành hoàng, có đền thờ Lý Thánh mẫu (thờ Minh Đức Thái Hậu Phạm Thị Ngà), Chùa Cha Lư (tức chùa Minh Châu) thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Ngà nữa. Lý Công Uẩn chào đời trong một túp lều ở phía sau chùa Cha Lư (chùa Minh Châu). Một số nhà sử học lại tạm thời kết luận Dương Lôi là quê nội của Lý Công Uẩn, còn Hoa Lâm( Đông Anh) là quê ngoại.Tuy nhiên làng Dương Lôi hiện còn nhiều người họ Phạm, có mối quan hệ huyết thống với bà Phạm Thị Ngà, trong khi đó ở Hoa Lâm có nhiều người họ Nguyễn (gốc Lý), khiến nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn băn khoăn về nguyên quán Hoa Lâm của bà Phạm Thị Ngà. Nhà nghiên cứu Chu Minh Khôi viết : ” Khi chúng tôi đề cập về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn Quyết, trưởng thôn Dương Lôi ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác với những người ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở Hoa Lâm lại có dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn thất nhà Lý, như vậy chưa đủ khẳng định Hoa Lâm là quê hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh đô Thăng Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông Đuống, nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây cung thất nghỉ ngơi, giải trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như vậy việc tại Hoa Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được. “.(Giác Ngộ online). Một số nhà sử học dựa vào hai chứng tích để minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ : Đoạn văn khắc chữ Hán trên bia Lý gia linh thạch (khắc vào năm 1793) “…ĐôngNgạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu… ” ở chùa Tiêu và đôi câu đối cổ: “Mạch tụ quân vương truyền thắng địa/Tích lưu Lý mẫu quán danh phương” bảo lưu ở đình thôn Thái Đường ở xã Mai Lâm. Tuy nhiên văn khắc này là do người đời sau khắc vào năm 1793 nên độ tin chưa cao. Cách đây vài năm, ở Hà Nội có tổ chức một hội thảo ngày 27/12/2008 nhằm trao đổi vấn đề tông tích của Lý Công Uẩn, nhưng cuộc hội thảo vẫn chưa khẳng định được gốc gác của Lý Công Uẩn. Điều nổi cộm là các thành viên hội thảo thấy rằng các học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn đặt vấn đề Lý Công Uẩn là con ruột của Lý Vạn Hạnh là không thuyết phục. Tuy nhiên công bằng mà nói, cũng qua sự tìm tòi tông tích của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp, Bắc Ninh của các nhà nghiên cứu và đã công bố tại hội thảo, càng ngày càng có thêm dữ kiện giúp các nhà nghiên cứu có hy vọng tìm được dòng dõi của Lý Công Uẩn. G.S Hoàng Xuân Chinh - Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nêu ý kiến :” Chưa thể khẳng định chắc chắn rằng, hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm là quê hương nhà Lý bởi chứng cứ đưa ra chưa thật đầy đủ, và không phải ngẫu nhiên, Đền Đô lại được xây dựng trên đất Đình Bảng. Tuy nhiên, ý kiến đưa ra tại cuộc tọa đàm này sẽ góp phần gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo “.PGS.TS Tống Trung Tín – Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam gợi ý:” Việc phát hiện lan can sấu đá là minh chứng cho việc tồn tại của công trình kiến trúc cung đình tại Hoa Lâm. Những di vật tìm thấy ở nơi đây cũng cho thấy, đây là nơi cư dân sinh sống liên tục từ thời Hán cho đến Tùy Đường kéo dài tới thời Lê. Riêng về vấn đề gốc tích quê hương nhà Lý cần phải đi sâu và nghiên cứu thêm nữa. Những hiện vật đang ẩn dưới lòng đất sẽ là nguồn tư liệu phong phú và thuyết phục cho những nhận định mới của sử học “.
Xét về tình riêng thì vua Lý Thái Tổ cũng có nỗi niềm là con không có cha ruột một cách chính danh, nhưng xét về nghĩa chung của cộng đồng dân tộc Việt thì ngài là đứa con tuyệt vời của quãng đại quần chúng. Ngài được quần chúng có văn hoá thai nghén, đựơc tấm lòng nhất thống của nhân dân nuôi dưỡng và được lớp trí thức tam giáo tôn vinh. Chính Lý Công Uẩn đã ý thức đầy đủ điều ấy, và đã không phụ lòng quần chúng , không phụ lòng lớp trí thức mong mỏi nơi ngài. Khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn chưa vội truy phong cho ông bà nội.Việc này bị sử thần phê phán nhà vua làm không đúng điển lễ . Thực ra, vị cố vấn thông thái Vạn Hạnh thừa biết điều ấy, nhưng chưa truy phong ông bà nội của ngài là vì trước đó đã tạo huyền thoại Lý Công Uẩn là con thần. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giới nghiên cứu khó trả lời câu hỏi cha ông của Lý Công Uẩn là ai. Nhưng rồi Lý Công Uẩn cũng phải truy phong cha là Hiển Khánh Vương mà không là Hiển Khánh Đế (?).Dữ kiện này phản ánh một điều sâu kín của Lý triều : Lý Thái Tổ truy phong ngầm cho ông nội của ngài đến bậc đế chăng ?

3. Phải chăng Lý Công Uẩn là cháu nội của sứ quân Lý Lãng Công của vùng Siêu Loại ?

Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân, chúng tôi để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại , có trung tâm Phật giáo Thuận Thành- Luy Lâu; đó là sứ quân Lí Lãng Công, tức là Lý Khuê, một vị hùng trưởng của miền đất nằm hai bờ sông Đuống. Lý Khuê hay Lý Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại.Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh nhau với quân Đinh Bộ Lĩnh bị thua và tử trận ở làng Dương Xá.Theo thần tích đền thờ Lưu Cơ, còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Thôn Dương Đanh của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu ? Con cháu của Lý Khuê còn không ? Sứ quân Lý Khuê không có mối quan hệ với Phật tử nói chung và Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn Hạnh nói riêng của chùa Lục Tổ hay sao ?
Cơ sở của giả thuyết công tác:
Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh… Sứ quân Lý Khuê đặt bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết vị sứ quân này được lực lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng hộ…Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật giáo lúc bấy giờ vậy. Gần đây trong bài ” Đạo Phật và nền văn hóa Việt Nam “, đăng ở ấn phẩm mùa Hạ của ” Văn hóa Phật Giáo Việt Nam “, hòa thượng Thích Minh Châu nhận định : ” Chư tăng là người hiểu biết trong xóm làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc và được nông dân kính trọng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đứng về phía những người yêu nước. Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng ” (tr. 8). Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại, cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một Phật tử có uy vọng, và tất nhiên không thể không có liên hệ với chùa Tiêu. Qua Thiền uyển tập anh ngữ lục, được biết Thiền sư ĐỊNH KHÔNG (730-808) thời thuộc Đường, người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn của ngài được củng cố và phát triển, họ Lý của ngài sẽ làm vua, nước Việt độc lập và Phật pháp được chấn hưng. Khi sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng (785-805), đào được pháp khí cổ, sư giải đoán họ Lý về sau có người làm vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Tâm nguyện của thiền sư được ký gửi qua bài kệ:
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương
Tam phẩm thành công.
Dịch:
Pháp khí hiện ra
Khánh đồng mười tấm
Họ Lý làm vua
Công đầu Tam phẩm
Trong bài kệ dự đoán, câu cuối ” Tam phẩm thành công ” được dịch ” Công đầu tam phẩm “phải chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi ” truyền thừa ” cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu ” Tam phẩm ” là ” ba đời họ Lý uy vọng ” mời thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: ” Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành. “. Quả ” dị nhân đến phá hoại mạch đất ” làCao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền ” pháp ý ” của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người hương Cổ Pháp) về những pháp thuật ” tài bồi thiên đức ” cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp… Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền ” tâm nguyện ” của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025) và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc ” sứ mạng ” mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là ” chiến lược trăm năm ” được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một mắt xích trong ” chiến lược trăm năm “, được thầy trò Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều hợp…Chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm khát vọng độc lập cho nước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập anh: ” “… Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, trước đây Cao Biền đắp thành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp…Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ:

Đại Sơn long đầu khởi
Cù Vĩ ẩn Minh Châu
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thỏ kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh”
( Nguyễn Minh Khôi, Đi tìm gốc tích vua Lý Thái Tổ, Giác Ngộ)
Nguyễn Minh Khôi viết : ” Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời từng dịch bài kệ như sau: “Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh”. Ông Nguyễn Đình Phúc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hồng kể: Năm 1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, GS đã thốt lên: “Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh!”. Sau đó, GS đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: “Đầu rồng hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu” ” .

Chúng tôi tiếp cận bài kệ của Truởng lão họ Đinh, hoàn toàn nhất trí với cách diễn giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng với hai câu đầu của bài kệ. Trên bình diện phong thủy, long mạch ở Cổ Pháp với đầu rồng là Đại Sơn, và đuôi rồng (rồng non, tức cù) ở chùa Minh Châu (Dương Lôi). Và đuôi rồng đã ứng phát cho Lý Công Uẩn, tức họ Lý đã trở thành đế vương với Lý Thái Tổ. Thế thì đầu rồng ” Đại Sơn ” ứng phát vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, bắt đầu được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa khóa để giải mã bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn ? Rõ ràng con cù (rồng non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời ” tiềm long ” ở Đình Bảng-Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…. Còn đầu rồng phải ứng phát một người họ Lý hương Cổ Pháp, đã khởi nghiệp ở Đại Sơn, thuộc Dương Lôi mà thôi. Ngọn núi Đại Sơn này có sông Đuống vờn mặt trước, nhìn về Dương Xá, Đại Từ…của vùng Thuận Thành-Luy Lâu, nơi hoạt động của sứ quân Lý Khuê, tức Lý Lãng Công vào những năm Bính Dần (966), Đinh Mão (967). Hiện nay tại thôn Dương Đanh, xã Dương Xá còn thờ Lý Lãng Công. Trong khoảng từ 936 đến 974 không có vị nào thuộc họ Lý của hương Diên Uẩn, ngoài Lý Khuê, đã khởi nghĩa !Vậy Lý Lãng Công là ứng với đầu rồng đã khởi, nhưng thất bại, và các con cháu của ngài phải ẩn tu hoặc mai danh ẩn tích, đổi họ Lý thành họ Nguyễn vào thời Đinh (968-991), thời Tiền Lê (991-1009).



Chùa Cha Lư ( Minh Châu), nơi thờ Phật và bà Phạm Thị Ngà. Sau chùa là nơi chào đời của Lý Công Uẩn. Có khả năng trước đó chùa Cha Lư là nơi thờ những vị quan họ Lư của triều Đường, thường dâng sớ can ngăn vua Đường phát binh dẹp những cuộc nổi dậy của dân Giao Châu.
Thế thì Lý Khuê phải là người con kiệt hiệt của dòng họ Lý của hương Cổ Pháp vậy. Cuộc nổi dậy của sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại, bờ nam sông Đuống không thể không có sự ủng hộ công khai hoặc bí mật của Lục Tổ Thiền Ông, thiền sư Vạn Hạnh cùng Phật tử của chùa Tiêu. Lý Khuê nổi dậy ứng với câu kệ ” Đại Sơn long đầu khởi ” của thiền sư Định Không. Và Lý Khuê khởi nghĩa được hai năm thì bị diệt, con cái phải đi trốn, mai danh ẩn tích, thậm chí phải sống trong rừng, trong hang đá, điều kiện sinh sống thiếu thốn. Hai câu cuối bài kệ của thiền sư Định Không, có màu dịch lý, trong đó chữ ” nguyệt ” tượng ” âm “, chữ ” nhật ” tượng ” dương “, âm là tối, chưa tốt, ẩn tàng ; còn dương là sáng, tốt đẹp, rực sáng. Lúc ” nguyệt nội ” thì hai sao xấu (kê, thử) và khi một sao tốt (thỏ) chiếu rọi, chuyển âm sang dương, tức ” nhật xuất ” thì thành công rực rỡ. Trong nhị thập bát tú thì sao MÃO NHỰT KÊ (GÀ) chỉ tốt cho nông nghiệp, còn giá thú, an táng, dựng nhà đều xấu. Nếu dựng nghiệp thì tai họa ập tới ngay những năm đầu tiên. Sao HƯ NHẤT THỬ (CHUỘT) cũng là một sao xấu, nếu tạo tác thì gặp tai ương, gia đình ly tán, cháu con trôi dạt tha phương. Hai sao trên thuộc loại HUNG TINH, còn một trong những CÁT TINH là sao PHÒNG NHỰT THỔ (THỎ). Sao này rất tốt cho tạo tác, giá thú, an táng, còn dựng nghiệp thì mọi sự đều tốt.

Và khi Lý Khuê bị thất bại, nhóm Thiền Ông-Vạn Hạnh phải ” cưu mang ” đám con cháu của Lý Khuê, tạo điều kiện cho cha, bác, chú của Lý Công Uẩn mai danh ẩn tích (tiềm long) để tránh sự bố ráp gắt gao của triều Đinh và Tiền Lê. Vì tin vào câu ” Cù vĩ ẩn Minh Châu ” nên Vạn Hạnh đã tiến hành việc cưới bà Phạm Thị Ngà cho một người con trai của Lý Lãng công (tức Hiển Khánh vương). Vì tạo cho Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh, tránh sự truy bắt của triều Đinh, Tiền Lê nên Thiền Ông ẩn tích, Vạn Hạnh đã giấu tông tích của Lý Khuê và mối quan hệ cháu ông giữa Lý Công Uẩn với sứ quân họ Lý vậy. Sau khi sứ quân Lý Khuê bị Đinh Bộ Lĩnh đánh bại, dòng họ Lý của sứ quân Lý Khuê một số bị giết, nhưng số còn lại phải đi ẩn, ví dụ vào rừng sinh sống, vào tu ở các chùa trong núi sâu nhằm mai danh ẩn tích. Lý Vạn Hạnh mặc dầu họ Lý nhưng cũng có thời kỳ phải mang họ Nguyễn. Đại Nam nhất thống chí từng chép: ” Đời Lý :Nguyễn Vạn Hạnh : người huyện Đông Ngàn , lúc bé thông minh khác thường , rộng thông ba học phái; xuất gia thâm thuý về thiền học, nói ra phần nhiều là lời sấm. Lê Đại Hành thường triệu đến hỏi công việc. Lí Thái Tổ phong làm quốc sư. “(tập4,tr146). Ngay vua Lê Đại Hành cũng rất gờm con cháu họ Lý, có khi suýt bắt được Lý Công Uẩn để trừ hậu hoạ. Hơn ai hết, Lê Đại Hành thừa biết họ Lý đang được lòng dân , đa phần là phật tử. ĐNNTC chép : ” Đền thần phụ quốc: ở xã Tam Tảo huyện Yên Phong . Xưa Lê Đại Hành đắp thành Hoa Lư, Lí Công Uẩn làm phu đắp, đến đêm Lê Đại Hành mộng thấy thần cho biết là có bậc quý nhân đương làm việc đắp thành ở đây.Thức dậy sai người đi tìm, thì Công Uẩn đã đi rồi . Khi Công Uẩn đi đến xã Tam Tảo, thấy hai vợ chồng già đang cày ruộng, bèn đem duyên do chuyện mình nói cho biết . Ông già liền bảo Công Uẩn lấy bùn trát khắp mình và cùng cày ruộng; sau đó ông già mang Công Uẩn về nhà, đào đất làm hầm cho ở và chứa nước ở trên hầm , Lê Đại Hành xem bói, thấy quẻ bói nói : ” nước ở trên người “. Vì thế, Lê Đại Hành tưởng là Công Uẩn đã chết ở sông rồi. Đến khi Lí Công Uẩn được nhà Lê truyền ngôi, bèn phong ông già làm Phụ quốc đại vương và phong vợ ông làm vương phi, làm nhà cho ở phường Phượng Vũ. Sau khi ông già chết, người địa phương lập đền thờ ngay ở chỗ ông già ở “(tr108). Sự kiện này phản ánh một thực tại; rằng các vua Đinh, Lê vẫn gờm họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại và bản thân Lí Công Uẩn cũng biết vai trò, vị thế của mình trong xu thế mới. Sử liệu này cho thấy sự đùm bọc của nhân dân đối với Lý Công Uẩn, người đại diện cho niềm khát vọng của họ. Đinh Tiên Hoàng tiếp tục cử tướng Lưu Cơ giữ thành Đại La, sau khi dẹp loạn thập nhị sứ quân, là để khống chế các tộc họ có uy vọng ở miền Kinh Bắc, trong đó có họ Lý của Lý Khuê. Sự kiện ” sét đánh cây gạo ” không là biến cố ngẫu nhiên. Từ năm 936 cây gạo đã được Trưởng lão Đinh La Quí An trồng ở làng Dương Lôi. Nếu sét đánh cây gạo khoảng năm 1009 hay 1010 trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi khoảng trên dưới một năm thì không hợp lý. Thật vậy, cuộc vận động để đưa dòng dõi họ Lý lên ngôi phải được tiến hành cả trăm năm, nhưng từ năm 936 cây gạo được trồng, cho đến năm 1009 mới có vụ cây gạo ở Dương Lôi bị sét đánh và xuất hiện bài sấm ký thì thì không có chuyện Lý Công Uẩn bị Lê Đại Hành cho người tìm Lý Công Uẩn nói riêng và họ Lý nói chung để trừ hại. Có khả năng dư luận về bài sấm ký có thể xuất hiện sớm hơn nhiều so với năm Lý Công Uẩn lên ngôi. Sau khi bị tử trận ở Dương Xá (tức ở làng Thổ Lỗi), thân nhân đã bí mật đưa hài cốt Lý Khuê về táng ở Mai Lâm, Đông Ngàn. Hiện nay ở Hoa Lâm (Mai Lâm, Đông Anh, Hà Nội) có mộ Hùng Công trong khu vực ” Lý gia lăng “. Trong bài ” Hoa lâm viên và những dấu ấn triều Lý ” (web chudu 24) có đoạn: ” Gia phả và nhà thờ họ Nguyễn gốc Lý tại thôn Du Nội còn ghi rõ. Mai Lâm ngày nay còn ghi nhận những địa danh như: đồng Bẫy Sập, mộ Hùng Công,miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh, cầu Giá Ngự… gắn với những sự kiện vui, buồn của thời Lý. Một ngàn năm qua đi mà những địa danh này vẫn còn đó, ghi lại dấu tích xa xưa ở một vùng quê. “Những địa danh lịch sử ở Hoa Lâm như mộ Hùng Công, miếu Âm Hồn, bãi Tổng Binh, ao Sau Dinh…không gợi mở về những ngày Lý Công Uẩn lên ngôi êm thắm mà như nhắc nhở về một vị hùng trưởng họ Lý khởi nghĩa và bị thất bại ! Mộ Hùng Công phải chăng là ngôi mộ bí mật của Lý Khuê ? Như thế thì mộ bà Lý triều quốc mẫu ở Hoa Lâm là mộ phu nhân của Lý Lãng Công ?


4/ Hoa Lâm là một trong những vùng tụ cư của họ Lý bản địa vào thời Vãn Đường ?

Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về tông tích cha mẹ của Lý Công Uẩn, các nhà sử học, các nhà nghiên cứu thường ít quan tâm nhân vật lịch sử của vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, quần tụ hai bờ sông Thiên Đức hay sông Đuống, đó là bà nội của Lý Công Uẩn.


Đền thờ Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm
Bà nội của Lý Công Uẩn cũng là một nhân vật lịch sử bí ẩn, bà chỉ xuất hiện trong Đại Việt sử ký toàn thư chỉ một lần, với dòng ghi chép ngắn ngủi : ” Mậu Ngọ (Thuận Thiên) năm thứ 9 (1018), Mùa xuân, tháng 2, truy phong bà nội làm hậu và đặt tên thụy “(s đ d.tr.245). Tại sao triều đình Lý Thái Tổ, có cố vấn Vạn Hạnh uyên thông tam giáo, để chậm trễ việc truy phong bà nội của Lý Công Uẩn ? Tại sao truy phong bà nội là hậu, có thụy hiệu mà không truy phong ông nội của Lý Công Uẩn? Việc truy phong bà nội nhưng gác lại ông nội chứng tỏ có điều uẩn khúc trong tôn tộc nhà Lý. Phải chăng, trong thời kỳ vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý vùng Cổ Pháp -Siêu Loại đã tạo những huyền thoại về một Lý Công Uẩn là con thần, nên triều đình nhà Lý, có quốc sư Vạn Hạnh, đã giấu tông tích thân phụ Hiển Khánh vương, giấu tông tích cha của Hiển Khánh Vương tức ông nội của Lý Công Uẩn ?.

Phải chăng bà vợ của Lý Lãng Công chính là phu nhân Phạm Thị Tiên, từng trú ẩn ở Hoa Lâm. Bà Phạm Thị Tiên, sau khi chồng bị bại, đã mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm. Làng Dương Lôi có vọng tộc là Phạm tộc, còn hoa Lâm có vọng tộc là Lý tộc.Những ngày mai danh ẩn tích ở Hoa Lâm, bà Phạm Thị Tiên thường vãn cảnh chùa Tiêu Sơn để liên lạc với con cháu đang trốn ở vùng Dương Lôi-Đình Bảng, rừng Báng, Tiêu Sơn. Bà đã bàn với hai người cháu tâm phúc, thiền sư Khánh Vạn( tức sư Vạn Hạnh) và Khánh Văn để lo cưới vợ cho một trong các con trai của bà. Vị này có thể ẩn cư ở chùa Tiêu Sơn hoặc rừng Báng Dương Lôi. Chính hai vị thiền sư Khánh Vạn và Khánh Văn nhân một chuyến về thuyết pháp ở Minh Châu, tìm được cô gái nghèo họ Phạm, tức Phạm Thị Ngà và thiền sư Vạn Hạnh đã tạo điều kiện cho cô Phạm Thị Ngà kết hôn với con trai của hai vợ chồng Lý Khuê , Phạm Thị Tiên trong bí mật.Chí ít bà Phạm Thị Ngà cũng có với cha của Lý Công Uẩn hai trai…Vì phải sống trong rừng, điều kiện quá khó khăn, bà Ngà phải nhờ sư Lý Khánh Văn nuôi Lý Công Uẩn khi ngài lên ba tuổi… Nghiên cứu bài viết của Nguyễn Minh Khôi trên báo Giác Ngộ thì thấy rằng hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm đều có đền thờ Phạm mẫu, nhưng tên gọi hai công trình kiến trúc khác nhau. Ở Dương Lôi goị là ” đền thờ Lý Thánh Mẫu “, ở Hoa Lâm gọi là ” đền thờ Lý triều quốc mẫu “.Tại đền thờ Lý triều quốc mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Tiên, còn tại đền thờ Lý triều thánh mẫu, tên húy của Phạm mẫu là Phạm Thị Ngà. Bà Phạm Thị Ngà rõ ràng theo truyền thuyết của làng Dương Lôi là mẹ đẻ của Lý Công Uẩn, nhận công việc thủ hộ ở chùa Thiên Tâm, thọ thai với ” thần nhân dựa cột chùa ” ( Hiển Khánh Vương), còn bà Lý triều quốc mẫu ỏ Hoa Lâm là tín nữ đến vãn cảnh chùa Thiên Tâm và cảm ” thần hầu ” trong hang đá, sinh ra vua Lý, chính là Hiển Khánh Vương (thân phụ của Lý Công Uẩn).PGS Trịnh Bỉnh Dy cho rằng chùa Tiêu vẫn còn tấm bia Lý gia linh thạch khắc vào năm 1793, có đoạn ” Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu, bất giác hữu thần “. Như thế những tác giả của văn khăc trên bia ” Lý Gia linh thạch bi ” ở chùa Thiên Tâm vào thời Tây Sơn, đã tưởng nhầm Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên,mẹ của Hiển Khánh Vương, có mộ ở Hoa Lâm với Lý Thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở Dương Lôi. Bà nội Phạm Thị Tiên, phu nhân của Lý Lãng Công, ẩn cư ở Hoa Lâm, có nhiều người gốc họ Lý, còn bà Phạm Thị Ngà ẩn cư ở rừng Báng của làng Dương Lôi, nguyên quán của mình. Nếu cả Dương Lôi và Hoa Lâm đều có mộ Phạm Thị , đều là mộ của bà Phạm Thị Ngà thì mộ của bà nội của Lý Công Uẩn ở đâu? Dẫu sao năm 1018, Lý Thái Tổ có truy phong bà nội làm hậu và dâng tên thụy; chỉ giấu hành tung của Lý Lãng Công. Và cũng tạo ra huyền thoại Lý quốc mẫu cũng gặp thần hầu và sinh ra Hiển Khánh Vương, như thế Lý Thái Tổ vẫn là con thần cháu thánh vậy. Với kiến giải này, hiểu được vì sao họ Lý lại tế lễ tiền nhân ở Thái Đường, Hoa Lâm, nơi có Lý gia lăng.Vậy lăng mộ của Lý thánh mẫu Phạm Thị Ngà ở rừng Báng, còn lăng của Lý triều quốc mẫu Phạm Thị Tiên ở Hoa Lâm, cùng với mộ chồng là mộ Hùng Công, thuộc Lý gia lăng. Ở Dương Lôi có Thái miếu, còn ở Hoa lâm có Thái đường. Nếu thế thì Hoa Lâm có mộ ông bà nội của Lý Thái Tổ, cho nên ở Hoa Lâm được họ Lý quần tụ, thường xuyên tế lễ ở nhà Thái Đường, nên mới xảy ra vụ án Trần Thủ Độ diệt các tôn thất nhà Lý đang cúng tế ở Lý gia lăng, để lại địa danh đồng Bẫy Sập. Lăng mộ Lý Thái Tổ chắc chắn ở Sơn lăng cấm địa, cùng với lăng mộ các vua Lý khác. Nhưng tại sao dân Hoa Lâm vẫn còn ký ức về mộ vua Lý Thái Tổ trong khu Lý gia lăng? Thực ra khi vua Lý Thái Tổ truy phong bà nội Phạm Thị Tiên là hậu thì ngầm truy phong ồng nội Lý Khuê là đế, và mộ của Hùng Công trở thành ” mộ vua Lý “. Do không biết ” mộ vua Lý ” là mộ vua Lý nào, dân sở tại cứ tưởng là mộ vua Lý Thái Tổ!


Con cháu họ Lý đang hành lễ ở Bãi Sập thuộc khu vực Lý Gia Lăng ở Hoa Lâm, Đông Anh, Hà Nội.
Tại di tích Hoa Lâm Viên ở xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, các nhà khoa học của đoàn khảo sát của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và Viện Khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích và hiện vật thời Lý-Trần, đặc biệt là những hiện vật gốm tráng men cao cấp có niên đại thế kỷ VII-X và gạch “Giang Tây Quân” – loại gạch đã tìm thấy ở 2 kinh đô Hoa Lư và Thăng Long. Phát hiện này phần nào hé mở những thông tin về các công trình kiến trúc thời Lý-Trần tại Hoa Lâm Viên, một di chỉ nằm trong vùng văn hóa Kinh Bắc xưa. Về những phát hiện này, chúng tôi quan tâm lan can sấu đá. Mô típ ” rồng-sấu ” này như là một gạch nối giữa motip rồng thời Ngô, Đinh với môtìp rồng thời Lý. Thật vậy rồng ở lan can này chưa hoàn chỉnh như con rồng thời Lý, nó còn mang dáng vẻ sấu ( hay cù) trên chuông đồng phát hiện ở thế kỷ IX, X của giới khảo cổ học. Chưa chắc cặp ” rồng-sấu ” phát hiện được là của một hành cung của vua Lý Thái Tổ cho xây dựng ở Hoa Lâm.


(Nguồn: HNM)
Những di vật gốm tráng men cao cấp thuộc thế kỷ VII-X phát hiện ở Hoa Lâm, Đông Anh cùng với thư tịch cổ cho phép chúng tôi đặt giả thuyết vùng Hoa Lâm Đông Anh từng là nơi cư trú của dòng tộc họ Lý bản địa, có uy vọng, từng có mưu đồ cát cứ thời Vãn Đường, kéo dài trong các thế kỷ VII,VIII, IX, X. Thật vậy, Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: ” Đinh Hợi, (687), (Đường Trung Tông Triết, Tự Thánh năm thứ 4 ).Mùa thu, tháng 7, các hộ người Lý ở Lĩnh Nam theo như lệ cũ nộp nửa thuế, Đô hộ Lưu Diên Hựu bắt phải nộp cả. Các hộ người Lý mới oán giận, mưu làm loạn. Lý Tự Tiên làm chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọnĐinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện.Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu,Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư Mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh đánh giết được Kiến. “(sđ d, tr.189).Giao Châu loạn, Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 722. Giặc Côn Lôn-Chà Bà chiếm phủ Trấn Nam đô hộ ở La thành, kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu Đô úy châu Vũ Định là Cao Chính Bình, quân cứu viện đánh tan quân giặc. Bá Nghi đắp lại La Thành năm 767. Rồi năm 791, Phùng Hưng vốn nhà hào phú, sức có thể vật hổ đánh trâu, dấy binh đánh Cao Chính Bình, chiếm phủ trị, tiếc thay sớm qua đời, con là Phùng An lên thay, tôn xưng cha là Bố Cái Đại Vương. Khoảng tháng 5, năm 791 nhà Đường đặt quân Nhu viễn ở phủ trị, cử Triệu Xương làm đô hộ, phủ dụ Phùng An, An đem quân hàng…Năm 819, Dương Thanh là một tù trưởng bản địa, từng được nhà Đường cử làm thứ sử Hoan Châu, khởi nghĩa nhân quan đô hộ Lý Tượng Cổ hà khắc, đánh phá phủ thành, giết Tượng Cổ. Nhà Đường sai Quế Trọng làm An Nam đô hộ, đánh Dương Thanh không được. Lý Nguyên Gia được cử làm đô hộ, đánh nhau với Dương Thanh cũng như dụ hàng cũng không xong. Lý Nguyên Gia tin phong thủy nên dời phủ thành. ĐVSKTT chép: ” Giáp Thìn(824),(Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4).Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay.(Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi,có người thầy tướng bảo rằng: Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ cao đến đây đóng đô dựng phủ… “(sdd tr.193)…Hậu bán thế kỷ IX, Giao Châu lại loạn vì giặc Nam Chiếu, Cao Biền đánh dẹp, lại đắp thành Đại La to rộng bề thế hơn…Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất, họ Khúc ở Giao Châu tự lập Tiết độ sứ. Vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính sang đánh dẹp họ Khúc, lại cử Lý Tiến làm thứ sử. Bộ tướng của Khúc Hạo là Dương Đình Nghệ ở Ái Châu đem quân đánh Tiến, chiếm được Đại La thành…Như thế thời Vãn Đường, các họ Lý, Phùng, Khúc, Dương có mưu đồ nổi dậy để tự chủ ở Giao Châu. Vậy ở bờ bắc sông Đuống có khả năng là vùng lập nghiệp của họ Lý, họ Khúc kế thế làm hùng trưởng.Như thế hành trạng của sư Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quý An cùng tâm nguyện của họ có thể hiểu được. Vậy thủ phủ của họ Lý là Hoa Lâm, gần ngã ba sông Hồng, sông Đuống… Những năm loạn lạc họ Lý cứ kinh dinh đất đai về phía đông, đông bắc phía bờ bắc sông Đuống, tạo nên hương Diên Uẩn ở bờ bắc sông Đuống. Những ngôi chùa cổ ở Kinh Bắc được dựng có họ Lý góp công sức như chùa Lục Tổ, chùa Cổ Pháp (chùa Dặn) ở Đình Bảng, chùa Cha Lư (chùa Minh Châu) ở Dương Lôi… Còn họ Dương có khả năng kinh dinh vùng đất thuộc hương Thổ Lỗi, nên về sau có làng Dương Xá. Có khả năng Lý Khuê, là một hùng trưởng ở Hoa Lâm, thời thập nhị sứ quân vượt sông Đuống, về phía nam chiếm Thổ Lỗi để đặt bản doanh vậy. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu Dương Lôi là quê nội thì ở Dương Lôi phải có nhà Thái Đường để họ Lý thường xuyên tế lễ tiên tổ họ Lý và cả ngàn năm sau con cháu họ Lý(đã đổi thành họ Nguyễn) phải tìm về. Đằng này con cháu họ Lý vẫn hằng coi Hoa Lâm là quê nội .

Còn làng Dương Lôi, vẫn còn tộc họ Phạm, luôn truyền ức làng mình là quê ngoại và là nơi bà Phạm Thánh Mẫu sinh Lý Công Uẩn vào những ngày gian khổ. Điều thú vị là bà nội của Lý Công Uẩn cũng gốc họ Phạm Dương Lôi, lấy chồng là hùng trưởng Lý Khuê và làm dâu nhà họ Lý ở Hoa Lâm .

5. Thay lời kết
Khi đã lên ngôi, vua Lý Thái Tổ đã truy phong cha là Hiển Khánh vương và tôn tạo ngôi mộ của cha ở rừng Báng, không xa chùa Thiên Tâm và Dương Lôi, được dân gian gọi là mộ Hiển Khánh Vương. Lại truy phong mẹ là Minh Đức Thái Hậu và cũng xây lăng cho mẹ trong rừng Báng. Do chưa tiện truy phong ông nội Lý Lãng Công, một vị sứ quân đã tử trận, nhưng sau đó truy phong bà nội làm hậu, ban tên thụy để cúng tế; thế thì bí mật truy phong ông nội là hoàng đế vậy… Lý Công Uẩn bí mật dựng mộ phần của ông nội Lý Lãng Công ( mộ Hùng Công) và mộ của bà nội Phạm Thị Tiên (mộ Phạm quốc mẫu) ở Hoa Lâm. Rõ ràng Lý Công Uẩn có người anh được ban tước Vũ Uy Vương , có em là Dực Thánh Vương.Lại có một người chú ruột còn sống và được phong Vũ Đạo Vương, con ông chú là Trung Hiển lại giứ chức Thái úy Lý triều. Như thế Lý công Uẩn có một gia tộc đàng hoàng, nhưng do ông nội là sứ quân Lý Lãng Công, bị Đinh Tiên Hoàng đánh bại và Triều Đinh, Tiền Lê tầm nã gắt gao con cháu Lý Lãng Công, gia đình của Lý Công Uẩn phải sống trong ly tán, bí mật. Nếu không có mối quan hệ huyết thống với sứ quân Lý Khuê thì bà con thân thuộc của thiền sư Vạn Hạnh chỉ cần đổi họ và sống bình thường, đằng này cha mẹ của Lý Công Uẩn phải kết hôn trong bí mật, sống trong rừng, chịu muôn vàn khó khăn và chết thảm ! Do cuộc vận động nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, họ Lý hương Cổ Pháp đã tạo ra huyền thoại cha con Lý Công Uẩn là con thần cháu thánh nên vẫn giữ bí mật mối quan hệ huyết tộc với Lý Khuê. Thôn Dương Đanh, làng Dương Xá được lệnh ngầm tế lễ sứ quân Lý Lãng Công và ở Thái Đường Hoa Lâm là nơi hiệp tế tiên tổ họ Lý, trong đó có ông nội Lý Khuê và bà nội Phạm Thị Tiên của Lý Thái Tổ.
Từ giả thuyết công tác nêu trên, chúng tôi thử dựng một phổ hệ gia tộc Lý Công Uẩn và Quốc Sư Vạn Hạnh. Phả đồ giả thuyết về tông tích của Lý Công Uẩn, trong đó chọn thân phụ của Định Không thiền sư làm tổ họ Lý và phải chăng ngài tổ này là hậu duệ của Lý Tự Tiên, cùng khởi nghĩa với Đinh Kiến vào năm 687? Tạm xềp Định Không thuộc đời thứ nhất, ngang hàng ông cố của Lý Khuê. Có khả năng đệ tử Thông Thiện cũng thuộc họ Lý, ngang đời với ông nội của Lý Khuê. Đệ tử Đinh La Quí An của Thông Thiện, người trị phép thuật của Cao Biền và trồng cây gạo lịch sử ở Dương Lôi là ngang đời với cha của Lý Khuê và là hậu duệ của Đinh Kiến. Họ Khúc từng khởi nghĩa và tự chủ, có hậu duệ là Khúc Lãm, được Trưởng lão Đinh La Quí An nhắc đến trong lời trối…
Chúng tôi đề xuất một giả thuyết công tác trong công cuộc tìm kiếm tông tích của nhà vua huyền thoại Lý Thái Tổ. Với tinh thần khoa học, chúng tôi dựa vào những bài kệ mang màu sắc sấm ký được chép trong Thiền Uyển tập anh ngữ lục, hoặc bài sấm ký xuất hiện trên cây gạo… để tìm sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn. Thiền sư Vạn Hạnh đã hoàn thành xuất sắc tâm nguyện của họ Lý nói riêng và của dân Việt nói chung. Dẫu là thiền sư ngài đã đạt vinh quang tột bực, cũng như người cháu, người con nuôi và người học trò xuất sắc Lý Công Uẩn. Tuy nhiên để đạt được sự vinh quang ấy thì tự đáy lòng thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ vẫn đau đáu một nỗi niềm không nguôi là Lý Công Uẩn là người ” mất gốc ” ! Vì lẽ đó, vị cố vấn Vạn Hạnh đã bàn với vua Lý Thái Tổ khi vừa lên ngôi đã phong tước vương cho chú, anh, em ; truy phong mẹ và cha…tức là biến huyền thoại người thần của Lý Công Uẩn thành bậc có cha là thần và mẹ là người thực của cõi nhân gian. Tuy nhiên sau 10 năm ở ngôi, nỗi đau ấy vẫn còn trong thiền sư Vạn Hạnh và vua Lý Thái Tổ, cho nên hai người quyết định truy phong bà nội của Lý Công Uẩn, ở Hoa Lâm, là hậu. Nhưng không truy phong ông nội, vẫn tạo ra huyền thoại bà nội ” cảm thần hầu ” trên tảng đá trong hang và sinh Hiển Khánh Vương. Chính ở chùa Tiêu Sơn, thiền sư Vạn Hạnh kể về các vị tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông với những bài kệ có sức dự đoán như thần là nhằm gửi lại hậu thế những chìa khóa để giải mã gốc gác người thực của Lý Công Uẩn. Do bối cảnh lịch sử đương thời, trước và sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn âm thầm giữ kín nỗi niềm bi kịch ấy, khiến hậu thế gặp nhiều khó khăn trong việc tìm gốc gác của Lý Thái Tổ. Khi nêu giả thuyết để góp phần tìm kiếm tông tích của vua Lý Thái Tổ, có thể phạm sai lầm, có gì sơ suất thì các nhà sử học và bà con họ Lý, họ Phạm góp ý cho chúng tôi trong tinh thần khoa học.

Trần Viết Điền
6-9-2010

Thứ Sáu, 8 tháng 10, 2010

Đi tìm mộ thân mẫu Vua Đinh Tiên Hoàng

Phát hiện thêm vị đại tướng họ Phạm là khai quốc công thần nhà Đinh

Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1, phần kỷ nhà Đinh) có viết: "Vua (Đinh Tiên Hoàng - tác giả) họ Đinh, tên húy là Bộ Lĩnh, người ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình) là con trai Đinh Công Trứ, Thứ sử Hoan Châu. Dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế... Vua còn nhỏ mồ côi cha, mẹ là họ Đàm".
Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, “triều thần rước linh cữu về táng ở Sơn Lăng”. Ngày nay, du khách tới thăm cố đô Hoa Lư (Ninh Bình), đều không quên tới thăm mộ vua Đinh ở núi Yên Ngựa. Tuy nhiên, một câu hỏi được đặt ra là mộ thân mẫu vua ở đâu khi đất Ninh Bình không thấy dấu tích?

Trong một lần đi điền dã về quê hương nhà bác học Lê Quý Đôn (xã Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình), tình cờ vào thăm một ngôi miếu cổ ở thôn Lộc Thọ, chúng tôi đều ngạc nhiên bởi đây lại là nơi thờ thân mẫu vua Đinh và ở đình làng còn thờ bốn thuộc tướng của ngài là Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công. Làng Lộc Thọ trước đây theo thần phả từ thời nhà Đinh là trang Thụy Thú - làng Thụy Thú. Đến nay, các cụ già còn quen tên gọi tắt là làng Thú (thôn Thú). Ngôi miếu cổ nhìn về hướng tây nam, tọa lạc trên khu đất rộng rãi. Phía trước là hồ nước rộng. Sân miếu đủ để rước kiệu cho những ngày tế lễ, hội làng. Miếu được xây dựng với cấu trúc hình chữ Đinh. Mái lợp ngói mũi, đầu hồi đắp đấu vuông bắt chỉ, nóc góc vuông có nghê chầu mặt nguyệt. Tiếp tiền sảnh là hậu cung. Tường hai bên được xây đắp hai cửa chớp vuông nhỏ. Gạch xây miếu là loại gạch cổ xưa, bản rộng, tường mặt ngoài bắt hèm cong lòng máng, không trát. Trong miếu, vật liệu làm khung, mái toàn bằng gỗ lim, cột quân, cột cái tròn, xà, bẩy, câu đầu hình má trai, soi chỉ và chạm hoa lá...

Theo thần phả và lời kể của các vị cao niên trong làng, miếu Lộc Thọ có cách đây 1.030 năm, đã qua nhiều lần trùng tu (lần cuối cùng vào năm Giáp Tý, triều Nguyễn Khải Định năm thứ 9-1924). Thần tích Ngọc phả của miếu chép rằng: Miếu thờ Quốc mẫu Thiềm Nương Hoàng Thái hậu. Vốn dấy cờ khởi nghĩa ở Hoa Lư, thấy đã đủ mạnh, Đinh Bộ Lĩnh rời đi dẹp loạn sứ quân, khi xuất quân có đem theo thân mẫu Đàm Thị. Thần phả ghi, bà Thiềm Nương - tức Đàm Thị - có tài cung kiếm. Sau khi về với sứ quân Trần Lãm ở Kỳ Bố Hải Khẩu, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Công, Sát Công, Phạm Thành về đóng đồn ở Doanh đầu (trang Thụy Thú) nhằm ngăn sứ quân của Phạm Bạch Hổ đang chiếm giữ đất Đằng Châu (nay thuộc Kim Động, Hưng Yên). Ông lưu thân mẫu lại trang Thụy Thú, dẫn quân đánh dẹp. Khi sắp xưng vương, ông cho người về trang Thụy Thú rước nhưng do ốm nặng, bà không về Hoa Lư được và mất tại đó. Vua Đinh cho táng mẹ ở doanh đồn Thụy Thú.

Tương truyền, huyệt đào sâu 1 trượng 2 thước (khoảng 4,8m). Mặt huyệt dùng đá lấp lên, sau dân làng xây miếu ở trên để thờ. Vua lệnh miễn giảm tô thuế cho dân Thụy Thú, ngoài ra cấp 51 mẫu ruộng và 4 hốt bạc để dân làng canh tác, coi giữ miếu đường. Cũng theo thần phả, bốn tướng Đinh Điền, Phạm Thành, Lưu Công, Sát Công trở về Thụy Thú chiêu dụ dân chúng bảo vệ hoàng lăng mộ địa. Hiện đình làng còn thờ bốn vị. Tại đây còn lưu 10 đạo sắc phong của ba đời vua Nguyễn: Thành Thái, Duy Tân, Khải Định. Các triều vua đã ban cấp thần hiệu: Đinh triều quốc Mẫu nhân từ Thiềm Nương Hoàng thái hậu trang huy dực bảo trung hưng thượng đẳng thần.

Qua thần phả, chúng ta được biết bà Thiềm Nương (Đàm Thị) sinh ngày 15-8 và hóa ngày 10-10. Miếu thờ Thái hậu ghi: “Thánh hậu Đinh Miếu” và có nhiều câu đối, trong đó có đôi câu:

Bát trâm tường thiểm nam thiên hạ

Kỵ mã tâm hùng nữ trượng phu

Các cụ Nguyễn Duy Gấm, Nguyễn Xuân Trà ở làng cho biết: Trước đây, cánh đồng trước miếu có ngôi mộ giả, tương truyền là mả thân mẫu vua. Cây cối rậm rạp, um tùm, dân vẫn quen gọi là Miễu. Bao đời nay, cha ông truyền lại rằng ngôi mộ thật hiện ở hậu cung của miếu. Tương truyền sau khi mẹ vua Đinh mất, triều đình đã cho chở đá phiến về lát trên mặt mộ. Sau này, dân làng lập miếu thờ, khi xây hậu cung đã dựng tường lên trên mặt đá của mộ. Hằng năm, vào ngày sinh, ngày mất của thân mẫu vua Đinh, dân làng đều tổ chức lễ hội để tưởng nhớ những người có công với làng, với nước. Hiện trong lễ hội tế ở làng Lộc Thọ còn lưu truyền tục lễ Thần Nông. Lễ hội được tổ chức vào ngày 10-5 âm lịch hằng năm để kỷ niệm ngày mất của hai vị tướng đã từng theo Thiềm bà và vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân. Đó là tướng quân Lưu Công và Sát Công. Tục lệ này được dân làng gọi là tục té nước Thần Nông. Thông thường, sau khi làm lễ ở đình, vị thủ nhang mặc quần lương, khăn xếp, cầm cành nêu bằng tre (dài 5m) và một bó mạ rồi mang ra cánh đồng đầu làng. Sau khi đã cắm cành nêu ở giữa ruộng, vị thủ nhang này mang mạ xuống ruộng cấy (ruộng cấy đã được cày, bừa và tát nước đổ vào trước ngày lễ hội). Quan viên hàng huyện, hàng tổng, hàng xã cùng xuống ruộng và té nước vào người cấy- coi đó là Thần Nông. Càng té được nhiều nước vào người cấy thì càng tốt. Sau khi người thủ nhang cấy hết bó mạ trên tay thì mọi người dừng té nước. Thông thường cứ phải sau ngày lễ Thần Nông, người dân trong vùng mới được cấy lúa vụ mùa. Sau lễ, mọi người đổ về đình làm lễ tế Thần Hoàng. Trong lễ hội thường có mời hội rối, hội chèo và có tục đấu gậy.

Bản thần tích Ngọc phả được lưu truyền ở miếu và đình Lộc Thọ là do Hàn lâm viện Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn ngày mồng một tháng giêng năm 1572. Đến triều vua Lê Vĩnh Hựu (thứ 2) - 1736, Tiến sĩ Nguyễn Hiền phục sao để ban cấp cho dân làng Thụy Thú thờ tự. Qua khảo cứu thần phả, thần tích, sắc phong và được nghe các cụ già trong làng kể lại, chúng tôi thấy có nhiều sở cứ rằng làng Thụy Thú xưa (Lộc Thọ nay) đã từng là căn cứ đóng quân của vua Đinh Bộ Lĩnh, đồng thời là nơi táng bà Đàm Thị. Rất mong tồn nghi này được sự quan tâm của các nhà khảo cổ học, các nhà nghiên cứu lịch sử.

Theo HNM

Danh tướng Phạm Văn Liêu trong lòng người dân xứ Bắc

Mấy năm nay, đoạn đường chạy qua hai làng cổ Thành - Vẽ nối với đường Xương Giang (đoạn ngã ba Quán Thành) thuộc thành phố Bắc Giang mang tên một danh tướng thời Lê là Phạm Văn Liêu, một trong những vị tướng có công đầu trong trận công thành Xương Giang và tiêu diệt viện binh nhà Minh xâm lược trên chiến trường Xương Giang đại thắng năm 1427. Hẳn gia thế, sự nghiệp danh tướng Phạm Văn Liêu đến nay chưa được nhiều người biết đến…
Phạm Văn Liêu là con Đô Đốc đồng tri Phạm Văn Thánh, nguyên quán ở thôn Nguyên Xá, hương Lam Sơn, huyện Thuỵ Nguyên, phủ Thiệu Thiên, xứ Thanh Hoá. Ông sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động: Nhà Trần suy vong bị Hồ Quý Ly thoán ngôi báu lập nên triều Hồ năm 1400. Đất nước chưa hết nội loạn thì nhà Minh đưa quân sang xâm lược (1407) và đã áp dụng nhiều chính sách cai trị vô cùng dã man tàn bạo mà đại thi hào Nguyễn Trãi đã thống thiết kể trong Bình Ngô đại cáo: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ…/ Chặt hết trúc Nam sơn không ghi hết tội/ Tát cạn nước biển Đông không rửa sạch hôi tanh…
Trong hoàn cảnh đất nước chìm trong đau thương tủi nhục ấy thì ở hương Lam Sơn (Thanh Hoá) Lê Lợi đã dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược. Phạm Văn Liêu là một nghĩa sĩ theo cha đến với nghĩa quân Lam Sơn từ những ngày đầu ở hội thề Lũng Nhai và nhanh chóng trở thành một vị tướng trung kiên, dũng cảm của chủ tướng Lê Lợi.
Trong đại chiến tiêu diệt viện binh nhà Minh trên chiến trường Xương Giang, Phạm Văn Liêu là vị tướng chỉ huy một đạo quân mật phục ven bờ sông Thương (vùng Xuân Hương, Mỹ Thái, huyện Lạng Giang ngày nay) rồi đồng loạt tổng công kích tiêu diệt và bắt sống hơn 7 vạn viện binh nhà Minh vào cuối năm 1427. Tiêu diệt xong viện binh xâm lược, Phạm Văn Liêu được phong chức Tả sa kỵ đại tướng quân rồi đặc chuẩn ở lại vùng thượng xứ Bắc trấn giữ miền phên dậu phía bắc thành Đông Quan. Mùa xuân năm 1428, vua Lê Lợi mở hội khải hoàn, khi xét công ban thưởng chức tước, bổng lộc cho tướng sĩ tuỳ theo công trạng có 125 vị tướng có công đầu được vua ban cho quốc tính là Lê Liêu, dự hàng "Khai quốc công thần" và ghi trong Sổ Hội đồng để truyền lại muôn đời cho con cháu được hưởng lộc nước.
Ngày mồng 5 tháng 9 năm Diên Ninh thứ 4 (1457) Phạm Văn Liêu tạ thế tại Kinh Bắc. Mộ phần đặt tại Rừng Cấm, thôn Chùa, xã Xuân Mãn, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang (nay là thôn Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang).
Đến năm Hồng Đức thứ 15 (1484), truy nhớ công lao của Phạm Văn Liêu, vua Lê Thánh Tông gia tặng cho Phạm Đình Liêu là: Bình Ngô khai quốc công thần, tước Khang Quốc công, chức Thái uý để tưởng nhớ và cho phép một số làng xã xứ Bắc phụng thờ.
Phạm Văn Liêu có hai người con, một trai, một gái. Sau bốn năm sau khi cha mất, người con gái được tuyển vào cung sau được phong làm Minh phi. Sách Đại Việt thông sử, sử gia Lê Quý Đôn chép về bà như sau: "Phạm Minh phi (vợ vua Lê Thánh Tông) Minh phi họ Phạm là cháu của quan được tặng hàm Đô Đốc đồng tri tên là Thánh và là con của quan được tặng Đô Đốc đồng tri Tri Khang Vũ bá Phạm Văn Liêu. Bà được tuyển vào cung ngày Mậu Ngọ tháng 7 niên hiệu Quang Thuận thứ 2 (1461). Ngày Bính Dần tháng 11 năm 1477 tiến phong là Minh phi được ở cung Thuỵ Đức.
Người con thứ hai của Phạm Văn Liêu là Phạm Đức Hoá, được vinh phong Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tư Đô kiểm điểm, tước Hoa Phong bá (sau được tặng Hoa Phong hầu) được kén làm Phò mã. Phạm Đức Hoá lấy con gái thứ 8 của vua Thánh Tông Thuần Hoàng đế là Thiều Dương công chúa Lê Thị Ngọc Khanh. Như vậy, Phạm Đức Hoá vốn là em vợ, sau được kén làm con rể (phò mã) của đức vua Lê Thánh Tông. Còn người cha Phạm Văn Liêu vừa là bố vợ vừa là thông gia của vị hiền vương này. Khi an cư lạc nghiệp trên phần đất được phân phong, gia đình họ Phạm đã trở thành một gia đình có thế lực ở xứ Kinh Bắc.
Với những bổng lộc của triều đình ban thưởng và hoa lợi của 2.370 mẫu ruộng được phân phong, gia đình họ Phạm (nhất là công chúa Thiều Dương Phạm Thị Ngọc Khanh) đã đem ban phát, công đức cho nhiều địa phương ở xứ Bắc xây dựng mở mang các công trình phúc lợi nên được nhiều địa phương tôn thờ. Theo tờ khai của Lý trưởng địa phương từ năm 1942, thì trên địa bàn tỉnh có 15 ngôi đình thờ cha con Phạm Văn Liêu và công chúa Thiều Dương làm Phúc thần/ Thành hoàng. Riêng tổng Tri Lễ, huyện Bảo Lộc xưa (nay thuộc 4 xã: Dương Đức, Xuân Hương, Tri Lễ, Tân Thanh của huyện Lạng Giang) có 8 làng/ xã tôn thờ và vẫn lưu giữ sắc phong, bài vị tôn thờ ba vị, đó là các xã: Chuyên Mỹ, Chí Mỹ, Đại Mãn, Xuân Mãn, Hương Mãn…
Phạm Văn Liêu đã trở thành thuỷ tổ của dòng họ Phạm ở làng Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Hiện ở làng Chùa vẫn còn di tích phần mộ và nhà thờ họ, nơi tôn thờ và lưu niệm danh tướng lịch sử Phạm Văn Liêu và đã được Bộ Văn hoá - Thông tin quyết định cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ ngày 9 tháng 1 năm 1990.
Trung tâm thờ Thiều Dương công chúa là đền Từ Mận (thuộc xã Xuân Hương), tương truyền đây là nơi hoá của công chúa, hiện vẫn còn phần mộ. Xưa vào ngày hội đền, dân tám xã của tổng Tri Lễ vẫn dâng lễ về đền Từ Mận để bày tỏ lòng tri ân trước linh vị công chúa Thiều Dương.
Ở thôn Hoàng Mai, xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên nhân dân cũng ngưỡng mộ tôn thờ công chúa Thiều Dương. Kỳ lạ, ở đây cũng có phần mộ công chúa và nhân dân địa phương vẫn còn lưu bản thần tích từ xa xưa về Thiều Dương công chúa.
Ở làng Ảm, xã Tiền Phong, huyện Yên Dũng có di tích Xa Lâu điện thờ quan Tư đô kiểm điểm Hoa Phong hầu Phạm Đức Hoá, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Tông và con gái thứ 8 của bà là Thái trưởng công chúa Lê Thị Ngọc Kế.
Như vậy, Khang Quốc công Phạm Văn Liêu, Hoa Phong hầu Phạm Đức Hoá, Thiều Dương công chúa được nhiều địa phương vùng thượng xứ Bắc tôn thờ và được các triều đại phong kiến phong làm Phúc thần cho phép các địa phương thờ tự. Hiện trên các làng xã thuộc hai huyện Lạng Giang, Yên Dũng còn lưu giữ hàng trăm đạo sắc phong của các triều đại phong kiến ban/ phong các làng xã tôn thờ ba cha con Phạm Văn Liêu. Đó là nguồn tư liệu quý cần được quan tâm sưu tầm, bảo tồn, nghiên cứu.
Nguyễn Văn Phong
http://www.baobacgiang.com.vn/